Về ngôi trường Nhân văn...
Năm 18 tuổi, tôi thi vào Nhân văn vì sự yêu thích với tên gọi của trường. Hai chữ "Nhân văn" khiến tôi mê chết ngất. Tôi tưởng tượng rằng hẳn đó sẽ là một ngôi trường với những con người dễ thương và đáng mến. Lần đầu tiên đến trường, tôi không giấu nổi sự thất vọng vì quang cảnh trường hoàn toàn khác với hình dung. Tôi không biết nó khác thế nào, chỉ là có cảm giác như vậy. Hôm đó tôi chỉ đi 5 phút là hết sân trường và tự băn khoăn mãi về lựa chọn của mình.
Nhưng sau khi học hết năm thứ 3 tại đây, tôi mới nhận ra rằng tôi rất yêu Nhân văn, yêu từ quang cảnh đến con người ở đó. Tôi yêu không gian nhỏ bé này vì nếu nó rộng lớn hơn, tôi biết chắc mình sẽ bị lạc. Thật ra Nhân văn nhỏ bé đến thế mà thỉnh thoảng tôi vẫn ngồi nhầm lớp đó thôi. ☺ Tôi từng ghét việc đến trường, nhưng chỉ là ghét sự đi lại mà thôi. Tôi thích ngồi trong giảng đường và lắng nghe thầy cô giáo của mình, gần như mọi lúc.
Tôi thích nhìn lũ bồ câu béo nhởn nha nhảy nhót trong sân, cảm giác đó thật là dễ chịu. Chúng chẳng sợ người, và cứ xà xuống ăn ngon lành mỗi lúc. Tôi thích những chậu cây nhỏ cài vào mỗi góc, nó đòi hỏi người ta phải để ý, phải chú tâm thì mới nhận ra.
Tôi thích mảng tường sơn màu vàng cũ kỹ và giản dị. Những lớp rêu bám và hàng cây xanh xanh trước mắt. Tôi thích cánh cửa nhà vệ sinh đầy những dòng chữ, tâm sự đủ thứ chuyện học hành, gia đình và tình yêu. Tôi nhớ mãi một cuộc "trò chuyện" trên cánh cửa nhà vệ sinh của ai đó diễn ra thế này:
- MÌNH GHÉT BỐ MÌNH :(((.
- Mình cũng từng rất ghét bố, nhưng bố mình mất rồi... Nên hãy yêu thương bố khi còn có thể nhé.
Thỉnh thoảng tôi học được những bài học như thế, nhận được những lời động viên vô danh như thế, trong chính nhà vệ sinh. Điều đó khiến tôi bất giác phải bật cười.
Nhưng tôi thích con người ở Nhân văn hơn cả. Những-con-người mới là điều làm nên sự sống. Ở Nhân văn luôn có sự đa dạng, tôi có thể bắt gặp một sinh viên khuyết tật, một người thuộc cộng đồng LGBT, một cô gái cá tính với mái tóc hồng chói và ăn mặc kiểu cách, một khuôn mặt giản dị luôn luôn, một sinh viên mặc quần áo nhà sư và mái đầu bóng loáng, nhóm sinh viên người Lào xì xầm vang vang một góc,... Tôi thấy họ lướt qua, rồi để lại cho mình một ấn tượng mang tính cá nhân mạnh mẽ.
Này nếu bạn có dịp tiếp xúc với những sinh viên khuyết tật ở Nhân văn, bạn sẽ thấy họ tuyệt vời và tự tin đến thế nào. Tôi ngưỡng mộ họ, và thầm nhận ra rằng sự thán phục chẳng cần phải tìm ở đâu xa xôi.
Ở Nhân văn, tôi không sợ sẽ bị nhìn với ánh mắt xa lạ hay soi mói. Tôi nghĩ vì sự đa dạng vốn có mà phần lớn mọi người đều biết cách chấp nhận sự khác biệt. Chẳng ai bị đánh giá, cũng chẳng ai bị kì thị hay ở ngoài rìa. Có thể vì Nhân văn trong lòng tôi được ưu ái lắm, nên tôi chỉ nhìn ra những điều tích cực như vậy thôi.
Ngoài những người bạn tuyệt vời hoặc không tuyệt vời thì cũng chẳng khiến tôi phiền lòng, tôi còn vô cùng biết ơn Thầy Cô của mình. Những bài học quan trọng của cuộc đời, tôi đã học cùng với họ.
Tôi nhớ những tiết học của thầy Loan. Nhớ câu chuyện khi thầy xúc động kể: "Bố mẹ thầy ngày xưa rất khó khăn, phải chắt bóp từng đồng cho thầy đi học. Nhưng thầy chưa báo hiếu được cho bố mẹ, đó là nỗi ân hận lớn nhất trong cuộc đời thầy. Thầy mong, các em sẽ thay thầy, báo hiếu cho bố mẹ các em." Ngay lúc đó, tôi phải quay đi gạt nước mắt. Tôi nhớ bài học về sự thất bại, khi thầy bảo: "Thất bại là một chuyện bình thường. Sau khi thất bại, mình thay đổi để lần sau làm tốt hơn, thế là được." Thầy dạy chúng tôi bài học quan trọng nhất khi làm nghề: "Trước khi làm bất cứ điều gì, phải tin tưởng tuyệt đối vào thân chủ đã. Nếu không tin tưởng, tất cả những điều khác là vô nghĩa."
Tôi nhớ tiết học lịch sử hay nhất trong đời với cô Hạnh. Khi cô dạy về chiến tranh biên giới năm 1979, về sự độc ác của Pôn Pốt, về hình ảnh cái cây xanh tốt đứng giữa khoảng trời nắng ấm - nhưng chỉ vài chục năm trước, đó là "công cụ" để đập đầu phụ nữ cho đến chết, để quật trẻ con vào thân cây cho đến chết... Lúc ấy tôi thấy tim mình trào lên sự đau đớn khôn nguôi. Tôi nhận ra rằng Lịch sử chẳng ở xa mình đến thế, những người đã sống qua thời kì đó chính là những người lớn tuổi mà tôi gặp hàng ngày. Họ ở ngay đó, như một nhân chứng về sự khủng khiếp của một thời quá vãng. Họ ở ngay đó, và chẳng còn muốn nói thêm gì về chiến tranh.
Tôi nhớ tiết học tôn giáo của cô Hới. Khi cô hỏi hiểu biết của chúng tôi về những ngày lễ lớn của dân tộc, về phong tục, tập quán và truyền thống của đất nước. Rồi cô bảo rằng: Thế hệ cô đã được các bậc cha, chú, ông, bà truyền dạy lại cho những truyền thống tốt đẹp đó. Đến lượt cô, cô có trách nhiệm dạy lại chúng tôi những điều ấy, "tre già thì măng mọc". Và rồi "Các em cũng sẽ dạy lại những điều đó cho con, cho cháu các em". Thú thật, tôi vốn không phải là một người quan tâm đến những phong tục và các ngày lễ trong năm. Nhưng lời dặn dò của cô khiến tôi ý thức về trách nhiệm của chính mình. Tôi cần có trách nhiệm, không chỉ với chính tôi, mà với cả thế hệ tương lai của mình.
Tôi mang ơn rất nhiều người Thầy, tôi không thể kể hết trong một trang viết. Từ tận đáy lòng mình, tôi biết ơn họ, biết ơn những đóng góp của họ đến ngày hôm nay. Tôi đã quá may mắn khi được học với những giảng viên tuyệt vời, vì thế dòng cuối cùng, có lẽ tôi sẽ viết cho tôi, như một lời nhắc rằng: Hãy sống xứng đáng với những gì mình đã được dạy.
Dù, giống như tất cả mọi người, tôi biết rằng tương lai phía trước thật bất định. Có thể tôi không làm đúng ngành nghề mình đã học, nhưng những bài học trên giảng đường Nhân văn luôn là hành trang tôi mang suốt quãng đời còn lại.
Tôi muốn cảm ơn Thầy Cô của mình, bạn bè của mình,... Cảm ơn họ đã xuất hiện trong cuộc đời và mang đến cho tôi những món quà tri thức vô giá.
Nếu có thể, cho tôi xin cảm ơn từng người.
<3
ReplyDelete